vaynhanh
12-12-2016, 04:47 PM
Truyện Nôm là một bộ phận văn học độc đáo và thể hiện nét thẩm mỹ độc đáo của văn học phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng và cũng là một di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc ta.
Giá trị của truyện Nôm được khẳng định qua sức mạnh trường tồn của nó và sự hâm mộ của quần chúng nhân dân lao động nhiều thế hệ. Ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu, về sau các nhà Nho bình dân và bác học đã dựa trên cơ sở cốt truyện đã có ghi chép, tái tạo lại, vì thế truyện Nôm viết bắt đầu xuất hiện và sống mãi trong dân gian cho đến tận hôm nay.
Truyện Nôm Việt Nam phát triển mạnh nhất trong thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX. Truyện Nôm được phân làm hai loại: Truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Truyện Nôm bình dân là truyện Nôm khuyết danh, truyện Nôm bác học là truyện Nôm có tên tác giả (1). Truyện Nôm bình dân lấy đề tài từ dân gian, đặc biệt là từ truyện cổ tích.Truyện Nôm bác học lấy đề tài từ những tích truyện Trung Quốc
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ NÔM
1.1. Vấn đề nguồn gốc và sự phát triển của truyện Nôm.
Hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong (hiện tượng hát rong xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ nào thì chưa xác định được, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều người sống bằng nghề này, nhất là sau thế kỷ XV).
Những bài hát tự sự này phần lớn đưọc các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra từ một truyện Nôm đã có trước. Càng về sau, những bài hát này càng được bồi bổ thêm về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đố bài hát đã được ghi vào trong sách, từ đó chính thức trở thành một truyện Nôm (lọai này có thể kể đến truyện: Trương Chi, Tấm Cám).
-Nơi thứ hai sản sinh ra các truyện Nôm là các nhà chùa của đạo phật. Ðể tuyên truyền đạo phật cho các tín đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sư có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều truyện Nôm đã xuất hiện theo con đường này.
Trên đây là nguồn gốc ra đời của truyện Nôm, trong hai hình thức trên cái nào có trước, cái nào có sau chúng ta vẫn chưa xác định được.
-Các hình thái của truyện Nôm.
+Truyện Nôm ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu. Sau một thời gian dài, khi phong trào truyện Nôm truyền khẩu phát triển mạnh mẽ thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử dụng loại hình văn học này để sáng tác, hoặc ghi chép lại những truyện Nôm đã có. Từ đó truyện Nôm viết được xuất hiện. Cũng như mọi hình thái sáng tác, truyện Nôm không phải là đã kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi cái khi xuất hiện đều tồn tại song song với những cái xuất hiện trước hoặc sau nó.
+Cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định được truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác.
+Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xã hội, căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống trị, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận định sơ bộ về sự phát triển của bộ phận văn học này như sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển, thời kỳ cực thịnh của nó là thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Phần lớn các truyện Nôm lưu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX việc sáng tác truyện Nôm dần dần chấm dứt vì thể loại văn xuôi mới ra đời đã đủ sức thay thế nó.
1.2.Vấn đề khuyết danh.
-Hiện nay chúng ta còn một số lượng khá lớn truyện Nôm không còn tên tác giả và thời điểm sáng tác, người ta gọi bộ phận văn học này là truyện Nôm khuyết danh.Nguyên nhân của hiện tượng văn học này? Có ba nguyên nhân.
+Do tâm lý coi thường các sáng tácbằng chữ Nôm của các nhà nho. Tâm lý này đã ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội kể cả những người sáng tác. Do bị coi thường (bị coi là loại văn học nhảm nhí, nôm na, mách qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của chúng không được chú ý đến và dần dần bị quên lãng.
+Do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị. Ðể tránh búa rìu của bọn chúng, nhiều tác giả đã không dám lưu danh trong sáng tác. Ðây là một nguyên nhân quan trọng.
+Nguyên nhân văn học:Trước khi được ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện Nôm được lưu hành trong nhân dân chủ yếu là bằng miệng. Qua một thời gian dài lưu hành từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác nhiều truyện Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện đã trở nên rất gần gũi với các truyện cổ dân gian.
1.3.Vấn đề phân loại.
Truyện Nôm có một số lượng khá lớn hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng tác cho nên nội dung cũng như nghệ thuật của nó đều không thuần nhất. Ðể tiện cho việc nghiên cứu người ta đã tiến hành phân loại bộ phận văn học này. Dựa theo những căn cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác nhau. Có thể phân loại theo ba cách sau:
1.3.1.Dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại.
-Loại lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian. Ví dụ: Trương Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh.
-Loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc. Ví dụ: Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan Trần.
-Loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam. Ví dụ: Tống Trân-Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ.
1.3.2.Dựa vào nội dung và hình thức, có hai loại.
-Truyện Nôm bình dân: Loại này do các nho sĩ bình dân sáng tác.
+Về nội dung loại truyện này mang đậm tính chất quần chúng.
+Về nghệ thuật: mộc mạc , giản dị.
+Ví dụ: Tống Trân- Cúc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa.
-Truyện Nôm bác học: Lọai này do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác.
+Về nội dung, tư tưởng có phần phức tạp hơn truyện Nôm bình dân.
+Về nghệ thuật điêu luyện hơn truyện Nôm bình dân.
+Ví dụ: Phan Trần, Nhị độ mai.
1.3.3.Dựa vào mối quan hệ với tác giả: phân làm hai loại.
-Truyện Nôm hữu danh (còn tên tác giả, ví dụ truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự), loại này còn lại không nhiều. Truyện Nôm hưũ danh phần lớn là truyện Nôm bác học.
-Truyện Nôm khuyết danh (không còn tên tác giả). Phần lớn các truyện Nôm khuyết danh là truyện Nôm bình dân.
Cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, trong đó hình thức thức thứ hai là hình thức phân loại có giá trị khoa học.
CHƯƠNG 2:
ÐẶC TRƯNG VĂN HÓA VIỆT QUA TRUYỆN THƠ NÔM
2.1. Truyện thơ Nôm thể hiện đời sống xã hội của người Việt
Vấn đề trung tâm đặt ra trong hầu hết các truyện Nôm bình dân là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức chống cường quyền bạo chúa bảo vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ nhân phẩm. Qua cuộc đấu tranh nhiều khi không cân sức ấy, tác giả truyện Nôm bình dân có ý thức làm nổi bật hai vấn đề cơ bản sau:
-Tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến trên bước đường suy vong của nó.
-Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động.
-Ngoài ra các tác giả truyện Nôm bình dân cũng thường đưa ra những cách giải quyết tích cực, tiến bộ các vấn đề xã hội.
Ba vấn đề này được coi là ba đặc điểm chính về nội dung của truyện Nôm bình dân. Ba đặc điểm này cũng đã nói lên rằng truyện Nôm bình dân có một nội dung gần gũi với quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của quần chúng lao động.
2.2.1 .Tố cáo bộ mặt cực kỳ thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến.
Trong vấn đề phản ánh hiện thực, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, vạch rõ bản chất của xã hội phong kiến, nói lên những nỗi thống khổ của quần chúng lao động, tác giả của những truyện nôm giàu tính quần chúng này cũng chưa có được cái nhìn đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. Kẻ thù giai cấp của quần chúng hiện lên trong trụuyện chưa phải là cả hệ thống giai cấp phong kiến thống trị đã cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân mà chỉ hiện lên lẻ tẻ. Hình thức bóc lột chính là bóc lột về mặt kinh tế vẫn chưa được các tác giả của bộ phận văn học này đề cập đến. Song ở một mức độ nào đó các tác giả này cũng đã chung sức vạch rõ bản chất thối nát , tàn bạo của xã hội phong kiến. Họ cũng đã dũng cảm làm cái công việc mà những nhà thơ, nhà văn đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị không dám làm hoặc che dấu để dối mình, lừa người. Ðó là phơi bày chân dung thực vốn hết sức bẩn thỉu của giai cấp thống trị. Có thể nói, cùng với bộ phận văn học dân gian, truyện Nôm bình dân đã giúp chúng ta tìm hiểu thêm được nhiều mặt thuộc về bản chất của xã hội phong kiến, một xã hội mà lịch sử dân tộc ta mãi còn lên án.
-Những truyện Nôm khuyết danh đã xây dựng được một hệ thống nhân vật phản diện từ vua chúa, quan lại, bọn nhà giàu ở nông thôn cho đến cả thần thánh (những thần thánh tàn ác). Qua hệ thống nhân vật phản diện này các tác giả đã vạch trần, tố cáo bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột, áp bức đồng thời nói lên tình trạng thống khổ của các tầng lớp nhân dân với một thái độ đồng tình sâu sắc.. +Nếu như trong văn học bác học vua chúa thường được nhắc đến với một thái độ tôn kính hoặc được coi như những thần tượng thiêng liêng tôn quý thì ở truyện Nôm bình dân chúng chỉ là những tên hôn quân, bạo chúa đáng lên án nhất. Loại truyện này nói rất nhiều đến việc vua chúa ép duyên trắng trợn. Hoặc chúng ép các tân khoa trạng nguyên phải bỏ vợ tào khang (người vợ đã cùng chung sống trong cảnh nghèo hèn) để lấy con gái mình (hai tên vua trong Tống Trân-Cúc Hoa đã lần lượt ép Tống Trân lấy con gái mình, bỉ ổi nhất là tên vua nước Việt sau khi không ép được Tống Trân hắn đã đẩy chàng đi xa). Hoặc những tên vua như Trang vương trong Phạm Tải-Ngọc Hoa, vua Hung Nô trong Lý Công đã ép những người con gái đẹp bỏ chồng để lấy mình. Tàn bạo nhất vẫn là Trang Vương, hành động ép buộc của y đã đẩy Ngọc Hoa-một cô gái đang yêu vào chỗ chết. Cái chết của nhân vật này đã gieo vào lòng người đọc một nỗi thương tâm vô hạn và càng thấy căm thù hơn giai cấp phong kiến thống trị.
+Có quyền, có lực bọn vua chúa tự cho phép mình làm những việc trái với luân thường, đạo lý nhằm thỏa mãn dục vọng đen tối của mình nhưng mặt khác đối với quần chúng lao động- những con người bị áp bức- bọn chúng lại ra sức kìm hãm tình cảm chân chính của họ. Tên vua Bảo Vương trong Lý Công đã cương quyết cắt đứt tình cha con, nhẫn tâm bắt con gái độc nhất cho voi giày, không được thì đem thả bể trôi sông chỉ vì công chúa đã tự tiện yêu đương ngoài sự kiểm soát của cha mẹ.
Trong truyện Nôm , bọn quan lại hiện lên chỉ là những kẻ bất tài, bất lực, chỉ giỏi việc xu nịnh vua, giỏi ức hiếp dân. Cả lũ triều thần trong Phạm Tải-Ngọc Hoa không ngăn cản nổi vua làm điều xằng bậy lại con xúi giục vua đi sâu vào tội lỗi. Tên quan trong Phương Hoa chỉ vì không lấy được người con gái đã hứa hôn đã đem tay chân đến giết hại, cướp của, phá nhà của cô gái ấy.
-Bọn nhà giàu ở nông thôn.
Những phú ông, những trưởng giả-bọn giàu có ở nông thôn được phản ánh trong các truyện Nôm khuyết danh bình dân khá sâu sắc. Nét nổi bật ở bọn người này là tâm lý tham tiền. Vì tiền, bọn chúng có thể làm tất cả. Có độc giả nào lại không căm ghét tên trưởng giả trong Tống Trân-Cúc Hoa. Vì tiền mà hắn đã coi con gái như một món hàng có thể đánh mõ, rao làng, gả bán mấy lần cũng được. Chẳng cần giữ một chút liêm sĩ nào cả, y ép Cúc Hoa phải bỏ chồng đi vắng để lấy một người triệu phú trong làng. Khi con gái kháng cự lại, y đã hành hạ con không tiếc tay và cuối cùng vẫn gả bán con cho bằng được mặc cho cô gái tội nghiệp kêu than.
Tóm lại: Tất cả những bọn này để đạt được mục tiêu ích kỷ, đê hèn của mình đã không từ một âm mưu, một thủ đoạn đen tối, hiểm độc nào. Chúng đã giày xéo lên những đạo đức, luân lý cơ bản nhất, giày xéo lên những pháp luật mà chúng đặt ra, giày xéo lên tính mạng của người dân và phá hoại hạnh phúc của bao nhiêu người vô tội.
Ðồng thời với việc tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, tác giả của bộ phận văn học này đã nói lên được nỗi thống khổ của quần chúng lao động (hạnh phúc tan vỡ, tính mạng bị đe dọa.. .) với một thái độ đồng tình sâu sắc.
2.2. Truyện thơ Nôm đề cao những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động.
Truyện thơ Nôm có một giá trị nhân đạo khá sâu sắc bởi nó không chỉ tố cáo những tội ác của giai cấp thống trị với quần chúng lao động , với những con người bị áp bức, đè nén mà các tác giả của bộ phận văn học này còn có ý thức đề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động, đặc biệt là đề cao người phụ nữ- con người thấp hèn nhất trong xã hội xưa.
Khuynh hướng đề cao quần chúng lao động đều thể hiện rất rõ trong mọi truyện Nôm bình dân. Ta thấy rằng các nhân vật chính bao giờ cũng là những người lao động, những người bị áp bức, bóc lột. Truyện viết về họ nên tác giả thường lấy tên họ đặt cho tác phẩm: Thạch Sanh, Tấm Cám, Trương Chi.. .
Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng, tác giả của bộ phận văn học này chủ yếu viết về những tình cảm tốt đẹp và lòng nhân đạo cao quý của họ. Trước hết là lòng thương người, một tình thương hết sức mộc mạc, chân thành mà cảm động và vững bềnNhắc đến văn học trung đại Việt Nam không thể không nhắc đến truyện thơ Nôm Việt Nam. Ngoài nội dung chuyển tải những bài học nhân sinh sâu sắc, truyện thơ Nôm còn đi vào lòng người và đọng lại trong tâm hồn mỗi chúng ta về những hình mẫu con người lý tưởng, lung linh những nét đẹp phẩm giá đáng trân trọng.
Do chủ yếu lấy truyện xưa, tích cũ làm đối tượng miêu tả nên truyện thơ Nôm mang vào mình một số đặc trưng của truyện cổ tích hoặc truyện kể dân gian trong cách xây dựng nhân vật, miêu tả thời gian, không gian…Hầu hết các truyện Nôm, đặc biệt là truyện Nôm bình dân đều miêu tả nhân vật để nhằm khắc họa ý đồ mà cốt truyện đã xây dựng nên chứ không phải đi sâu khắc họa tính cách nhân vật đó. Ngoại hình con người ít khi được miêu tả và nếu có chỉ miêu tả sơ sài công thức cốt chỉ để người nghe nhận ra đó là loại người xấu, hay tốt mà thôi. Cô Cám (truyện Cái Cám), Cúc Hoa (Phạm Công - Cúc Hoa), cô gái (Mộng Hiền truyện)…. đều là kiểu nhân vật như thế cả. Ngay cả nàng Nguyệt Nga của cụ Đồ Chiểu cũng không được chú trọng miêu tả ở dung mạo bề ngoài mà đặc biệt lưu ý vẻ đẹp tiết hạnh đáng quí nổi bật. Như vậy, nhìn chung ở “truyện Nôm xu hướng phiếm chỉ hóa vẫn là đặc trưng khá phổ biến, và nhân vật trong truyện Nôm thực chất vẫn còn ở dạng loại hình nhiều hơn cá tính”.
Nhân vật truyện thơ Nôm bác học thường là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ. Đặc điểm ngoại hình nhân vật cũng có liên quan đến sự phát triển của cốt truyện và thường có những dấu hiệu để nhận biết như: tên gọi, về tiểu sử, nghề nghiệp.... Những dấu hiệu đó được trình bày ngay từ đầu và ảnh hưởng đến sự phát triển về sau của cốt truyện. Cách miêu tả vẻ đẹp Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau trong Truyện Kiều dường như cũng dự báo về số phận của mỗi người sau này:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
Hay việc giới thiệu Hoạn Thư:
"Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già"
Cũng gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau của nhân vật.
Hoạt động của nhân vật truyện thơ Nôm Việt Nam cũng được miêu tả theo nguyên tắc ước lệ. Nhìn chung, nhân vật truyện thơ Nôm vẫn chưa thoát khỏi những khuôn mẫu của nhân vật truyện cổ tích và vị thế mang đầy đủ đặc trưng của nhân vật truyện cổ tích. Chúng ta hãy xem xét các nhân vật trong Thoại Khanh- Châu Tuấn, Phạm Công – Cúc Hoa… đều như được đúc ra từ một khuôn. Một số nhân vật nam như Lý Công, Phạm Công, Châu Tuấn đều mồ côi từ nhỏ, đều là những học trò nghèo phải đi ăn mày hoặc dắt mẹ đi ăn mày như vẫn nuôi chí học thành tài và cuối cùng đều thi đỗ Trạng Nguyên. Trong tình yêu họ đặc biệt thủy chung son sắt. Mặc dù thành đạt bị vua ép gã công chúa đều tìm cách chối từ cho dù bị đày ra viễn xứ, xa vợ con hàng chục năm trời vẫn không nguôi nhớ thương. Còn hầu hết các nhân vật nữ thường xinh đẹp tuyệt vời, một lòng hiếu thảo với mẹ chồng, đảm đang nuôi chồng ăn học và lúc gặp hoạn nạn khó khăn xa chồng họ vẫn luôn giữ tròn danh tiết, kiên trinh đợi chờ. Đó là nét phẩm chất chung của nhân vật truyện thơ Nôm Việt Nam. Vì vậy theo nhận xét của Kiều Thu Hoạch trong “Truyện Nôm – nguồn gốc và bản chất thể loại”: “Thế giới nhân vật truyện thơ Nôm có tính chất lí tưởng hóa nhiều hơn là hiện thực”.
Những nhân vật tốt, tích cực không bao giờ chịu thất bại trước những thế lực phản động có quyền uy mãnh mẽ trong xã hội để cuối cùng đi đến kết thúc tốt đẹp. Ngay cả những truyện Nôm bác học như truyện Kiều, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga… cũng xây dựng nhân vật nhằm đi tới tình huống kết thúc có hậu này. Và để thực hiện điều này tác giả tryện thơ Nôm đôi khi phải nhờ đến sự hỗ trợ của các yếu tố thần kỳ.
Mặt khác, nhân vật truyện thơ Nôm bình dân thường không thông qua việc miêu tả ngoại hình hay phân tích nội tâm mà chủ yếu được thể hiện thông qua hành động. Ngôn ngữ đối thoại được dùng để biểu hiện cảm nghĩ của nhân vật. Đây là nguyên tắc về nghệ thuật có tính chất cơ bản trong việc xây dựng nhân vật truyện.
- Trong truyện Nôm bình dân đó là những con người như Cúc Hoa, Ngọc Hoa sẵn sàng yêu thương kẻ nghèo khó khốn cùng (mẹ con Phạm Công, Phạm Tải). Ðó là tấm lòng cưu mang những con người sa cơ, lỡ vận; là tấm lòng chí hiếu của những nàng dâu đối với mẹ chồng như Thoai Khanh đối với mẹ Châu Tuấn, Cúc Hoa đối với mẹ Phạm Công. Quan hệ mẹ chồng-nàng dâu ở đây được khẳng định là một tình cảm tốt đẹp, đáng quý chứ không phủ định như ở ca dao.
- Nổi bật nhất vẫn là tình cảm, tình yêu của những cặp vợ chồng, họ yêu thương thắm thiết và chung thủy hết mực với nhau. Sự chung thủy của vợ chồng Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa đã giúp họ vượt qua mọi thử thách, mọi cảnh ngộ éo le mà xã hội phong kiến đã bày ra, giúo họ vượt lên trên sự cám dỗ của giàu sang, phú quý, đứng vững trước sự đe dọa của cường quyền, bạo lực.
Ðề cao quần chúng lao động, tác giả của bộ phận văn học này cũng đặc biệt chú ý đề cao người phụ nữ. Ðây cũng là một nét đặc sắc của văn học giai đoạn này đồng thời nó cũng là sự phản ánh vai trò, chức năng của người phụ nữ vào văn học. Các nhân vật phụ nữ xuất hiện trong các truyện Nôm bình dân có nhiều nét đổi mới: Họ xuất hiện với một tư thế của người vươn lên làm chủ vận mệnh. Thường xuất thân từ lá ngọc cành vàng (con nhà triệu phú trở lên như Cúc Hoa) nhưng các nhân vật nữ này lại có thân phận cụ thể của quần chúng lao động (họ cũng bị áp bức, đè nén; giàu lòng trắc ẩn, giàu lòng thương người).
Các điểm cần lưu ý.
+Các nhân vật nữ đã dám hành động theo suy nghĩ của mình chứ không theo đạo đức phong kiến. Hành động của Cúc Hoa, Ngọc Hoa quả là những hành động táo bạo. Hai cô gái này đã cương quyết lấy người con trai mà mình đã thương yêu dù những chàng trai đó là những người ăn mày nghèo nàn. Quan niệm về hôn nhân của Cúc Hoa, Ngọc Hoa là một quan niệm hết sức tiến bộ, nó vượt xa quan niệm môn đăng hộ đối của các cô gái quý tộc xưa. Hai cô dám nhìn thẳng vào chân giá trị của những con người nghèo hèn nhất, đến với họ và đến với cả một tấm lòng yêu thương và thông cảm.
+Hoàn toàn khác với các cô gái trong truyện Nôm bác học, đến với tình yêu bằng sự rung động của giới tính, cac cô gái của truyện Nôm bình dân đã đến với tình yêu bằng sự rung động của đạo đức-lòng yêu thương những người nghèo. Ðây chính là cơ sở của nhiều mối tình son sắt, thủy chung bất chấp những ngang trái của cuộc đời cũ.
+Một số nhân vật nữ không chỉ dám chủ động xây dựng hạnh phúc mà còn tích cực đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc và tình yêu đẹp đẽ của mình (nên nhớ rằng các nhân vật này bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của bản thân chứ không phải để bảo vệ đạo đức phong kiến). Và trong cuộc đấu tranh đó họ đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp (lòng vị tha, đức hi sinh, nghị lực phi thường, trí thông minh quyết đoán...) mà nội dung phản ánh còn được mở rộng, ý nghĩa xã hội của chủ đề được nâng cao. Cuộc đấu tranh của họ ngoài ý nghĩa bảo vệ hạnh phúc, tình yêu còn có ý nghĩa bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ công lý.
+Cố nhiên những phẩm chất đạo đức trên thường bị tác giả quy vào những quan niệm: trung, hiếu, tiết, nghĩa của hệ thôïng luân lý Nho giáo. Nhưng xét cho cùng những khái niệm đạo đức đó căn bản đã có một nội dung nhân đạo được nhân dân tán thành và ưa chuộng.
2.3.Truyện thơ Nôm chuyển tải được tư tưởng đạo đức luân lí và tín ngưỡng của người Việt
Truyện Nôm không chỉ đặt ra những vấn đề lớn lao mà còn đưa ra được cách giải quyết tích cực là để những người lương thiện chiến thắng các lực lượng bạo tàn. Ðây là phần lãng mạn tích cực của bộ phận văn học này vì thực ra trong chế độ phong kiến nói chung nhân dân lao động làm gì kiếm ra được hạnh phúc trọn vẹn bởi các cuộc khởi nghĩa của nông dân thường đi đến thất bại hoặc chỉ đưa đến một sự thay đổi triều đại rồi đâu lại vào đấy.
-Nhưng có một điều là sống trong xã hội đen tối đó quần chúng lao động bao giờ cũng có một ước mơ về một xã hội không có sự bất công, bất bình đẳng, một xã hội thái bình trong đó người ta sống yêu thương nhau và có hạnh phúc đầy đủ, họ ước mơ một xã hội có vua tốt, tôi hiền. (Văn học dân gian nói đến vấn đề này rất rõ). Ðó là những mơ ước chính đáng (xét trong hoàn cảnh xã hội) chứ chưa phải là nhữnh mơ ước đúng đắn nhất, đầy đủ nhất. Tác giả của bộ phận văn học này là những người có cuộc sống khá gần gũi với quần chúng lao động nên họ hiểu được quần chúng nhiều hơn và phản ánh được những ước mơ đẹp đẽ, phản ánh được tinh thần lạc quan mạnh khỏe của quần chúng vào sáng tác của mình. Vì thế các sáng tác của các tác giả bình dân này đã tiếp thêm sức sống cho con người lao động trong xã hộ xưa, quần chúng tìm đến những sáng tạo nghệ thuật này một phần cũng vì lý do trên.
-Chúng ta cũng cần biết thêm rằng: Do những hạn chế của lịch sử cho nên các tác giả cũng chưa nhìn thấy ở quần chúng cái động lực để giải quyết các vấn đề thời đại đặt ra, cho nên trong đấu tranh họ phải nhờ đến những lực lượng siêu hình như thần phật giúp đỡ. Nhưng thần phật cũng chỉ có mặt để cho con người chiến đấu hết mình với hoàn cảnh. Trong cuộc đấu tranh sinh tử ấy, con người vẫn phải chủ động, vẫn phải nỗ lực rất nhiều.
2.4. Kết cấu cốt truyện truyện thơ Nôm có nằm trong mạch nguồn của kết cấu truyện kể dân gian.
Để xây dựng câu chuyện theo mô hình “kết thúc có hậu”, mô hình: gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ quen thuộc vẫn thường xuất hiện các truyện thơ Nôm, đặc biệt là truyện thơ Nôm bình dân, yếu tố thần kỳ được sử dụng như là một “hình tượng” đặc trưng. Chính vì thế Kiều Thu Hoạch trong giáo trình Truyện Nôm - nguồn gốc và bản chất thể loại đã khẳng định: “Yếu tố thần kỳ chẳng những chỉ là một biện pháp nghệ thuật quan trọng để thực hiện mô hình cấu trúc gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ mà còn là một đặc trưng thi pháp không thể thiếu của thể loại truyện này”.
Trong mô hình cấu trúc gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ của truyện Nôm thì trường đoạn tai biến có nhiều diễn biến phức tạp nhất của cốt truyện. Tại đây nhân vật chính luôn luôn phải trải qua những biến cố cực kỳ khủng khiếp tưởng chừng như vượt quá sức chịu đựng của một con người bình thường. Trong những trường hợp như thế, đành rằng nhân vật chính giữ vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định, song bên cạnh đó vẫn không thể thiếu được sự hỗ trợ của một sức mạnh vô hình, thường được biểu hiện bằng những lực lượng siêu nhiên và những yếu tố thầng kỳ. Nhờ vậy mà nhân vật chính đã có thể vượt qua hành loạt những tai ương tưởng chừng không thể vượt qua, để đi đến thắng lợi cuối cùng, đi đến kết cục đoàn tụ - một cấu trúc quen thuộc muôn thưở của loại hình truyện thơ Nôm.
Trong truyện Phạm Công – Cúc Hoa, chàng Phạm Công vì công chịu lấy công chúa Hung Nô nên bị chua Hung Nô sai quân chặt tay, khoét mắt, đục răng… Nhưng nhờ có Ngọc Hoàng sai chư tướng xuống phù phép, nên chàng đã lành lặn như xưa. Còn nàng Cúc Hoa tuy đã chết những vẫn thường hiện linh để giúp đỡ chồng con. Và cảnh tưởng ly kỳ hơn là khi Phạm Công vì quá thương nhớ vợ nên đã lặn lội xuống âm phủ tìm gặp. Chính tình yêu thủy chung của chàng khiến Diêm Vương cảm động nên cho phép Cúc Hoa trở lại trần gian sống hạnh phúc cùng chồng. Cảnh tượng này cũng xuất hiện ở truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa khi nàng Ngọc Hoa tự tự để được xuống âm phủ gặp chồng. Tại cõi âm, Ngọc Hoa cùng Phạm Tải viết cáo trạng kiện Trang Vương. Trang Vương đã bị bắt xuống âm ty xử tội và bị bỏ vạc dầu. Hai vợ chồng Phạm Tải, Ngọc Hoa hồi sinh trở về dương thế. Sau đó Phạm Tải được Ngọc Hoàng cho làm vua chăn dân thái bình an lạc.
Ở Thoại Khanh – Châu Tuấn một loạt yếu tố thần kỳ cũng liên tục xuất hiện xung quang nhân vật Thoại Khanh. Châu Tuấn chồng Thoại Khanh khi đỗ Trạng nguyên đã bị lưu đày sang nước Tề vì không chịu kết duyên cùng công chúa con vua. Mòn mỏi đợi chờ trong bảy năm không thấy chồng về, Thoại Khanh đã dắt mẹ chồng sang Tề quốc tìm chồng. Giữa đường, đói khát sức kiệt nàng đã phải cắt thịt ở cánh tay mình cho mẹ chồng ăn. Vì đã có Phật tổ phù hộ nên cánh tay nàng vẫn không hề chảy máu, sau còn được Ngọc Hoàng cho linh sơn đắp vào lành lặn như cũ. Dọc đường đi, lúc ăn xin trong ngôi miếu hoang, Thoại Khanh lại bị Dâm thần cưỡng bức, móc mù mắt. Về sau nhờ phép tiên hai tròng mắt được mua về lắp vào sáng lại như xưa. Khi đi qua rừng sâu nàng còn được lại được hổ thần cõng giúp nên nhanh chóng đến địa phận nước Tề. Đặc biệt thần kỳ là Thoại Khanh còn được Phật tổ cho cây đàn thần, đây chính là vật môi giới giúp nàng tìm lại Châu Tuấn, kết thúc chặng đường tìm kiếm đầy khổ ải của đời mình.
Ngay cả chuyện Nôm bác học Lục Vân Tiên của nhà nho Nguyễn Đình Chiểu cũng lấp lánh những yếu tố thần kỳ. Theo thống kê của Nguyễn Quang Vinh trong Tạp chí Văn học số 4 – 1972 thì truyện Lục Vân Tiên có đến mười hai lần xuất hiện các yếu tố thần kỳ để phù trợ cho Vân Tiên, Nguyệt Nga trừng phạt những lực lượng độc ác và vượt qua được mọi khó khăn, thử thách. Trong Sơ kính tân trang – mặc dù câu chuyện viết từ nguyên mẫu mối tình hiện thực bi thảm giữa nhà thơ tài hoa Phạm Thái và Trương Quỳnh Như nhưng yếu tố thần kỳ vẫn được sử dụng như một cách thức để đi đến kiểu kết thúc có hậu. Chi tiết Trương Công đã ngoài sáu mươi tuổi lại sinh con và nàng Thụy Châu chính là Quỳnh Như hóa kiếp vô tình gặp gỡ Phạm Thái trên chùa để rồi tái duyên chính là những chi tiết ly kỳ giúp cho câu chuyện đi đến kết cục ngập tràn hạnh phúc.
Như vậy, qua một số dẫn chứng, chúng ta nhận thấy việc sử dụng yếu tố thần kỳ là một biện pháp nghệ thuật không thể thiếu để hướng nhân vật chính đi đến kết thúc có hậu. Nếu biện pháp đó chưa được thực hiện như một quy trình chặt chẽ thì tác phẩm chắc chắn chưa thể đi đến đoạn kết thắng lợi. Có lẽ vì thế Truyện Kiều – một tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng của đại thi hào Nguyễn Du vẫn có màn Kim Kiều tái hợp ở đoạn kết như âm hưởng bi ai, cay đắng vẫn không thể xóa bỏ. Có lẽ do nhà thơ đã không sử dụng yếu tố thần kỳ như là một thủ pháp nghệ thuật cần phải có để hướng nhân vật chính tất yếu phải đi theo con đường kết thúc có hậu như các truyện thơ Nôm bình dân mà chúng ta hay bắt gặp. Do đó “Truyện Kiều không có cái kết cấu bình dị nhưng đầy ý nghĩa lạc quan chiến đấu của một số truyện thơ Nôm chịu ảnh hưởng của văn học dân gian như Phạm Tải – Ngọc Hoa, Thạch Sanh, Tống Trân – Cúc Hoa… nhạc khúc cuối cùng của kiệt tác Truyện Kiều nghe ta vẫn ngậm đắng nuốt cay thế nào. Màn “Tái hồi Kim Trọng” là một kết thúc vừa sáng tươi, vừa bi kịch”.
Có lẽ vì vậy nên chúng ta dễ dàng nhận thấy ở nội dung truyện Nôm luôn dồn nén những khát vọng dân chủ, tiến bộ của nhân dân lao động trong giai đoạn suy vong của chế độ phong kiến và trở thành vũ khí phê phán sắc bén, mạnh mẽ chống trả quyết liệt với hệ thống đạo đức, lễ giáo, kỷ cương cổ hũ, bất công, thối nát.
KẾT LUẬN
Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam. Ðây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng, vì vậy có người gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ phận văn học này được sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng. Một số ít khác viết theo thể thất ngôn bát cú (thơ Ðường luật), tác phẩm Lâm Tuyền kỳ ngộ thuộc loại này. Bộ phận văn học này có một số lượng khá lớn và có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng lao động. Truyện thơ Nôm mang đậm dấu ấn văn hóa Việt, nên giá trị của thể loại văn học này đã được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ.
Chương 5
TRUYỆN THƠ NÔM
I. MỘT SỐ VẤN CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ NÔM
1. Vấn đề nguồn gốc và sự phát triển của truyện Nôm.
2. Vấn đề khuyết danh.
3. Vấn đề phân loại.
II. ÐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN.
1. Nội dung
2. Ðặc điểm nghệ thuật.
III. MỘT SỐ NÉT HẠN CHẾ
IV. KẾT LUẬN
________________________________________
Giá trị của truyện Nôm được khẳng định qua sức mạnh trường tồn của nó và sự hâm mộ của quần chúng nhân dân lao động nhiều thế hệ. Ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu, về sau các nhà Nho bình dân và bác học đã dựa trên cơ sở cốt truyện đã có ghi chép, tái tạo lại, vì thế truyện Nôm viết bắt đầu xuất hiện và sống mãi trong dân gian cho đến tận hôm nay.
Truyện Nôm Việt Nam phát triển mạnh nhất trong thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX. Truyện Nôm được phân làm hai loại: Truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Truyện Nôm bình dân là truyện Nôm khuyết danh, truyện Nôm bác học là truyện Nôm có tên tác giả (1). Truyện Nôm bình dân lấy đề tài từ dân gian, đặc biệt là từ truyện cổ tích.Truyện Nôm bác học lấy đề tài từ những tích truyện Trung Quốc
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ NÔM
1.1. Vấn đề nguồn gốc và sự phát triển của truyện Nôm.
Hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong (hiện tượng hát rong xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ nào thì chưa xác định được, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều người sống bằng nghề này, nhất là sau thế kỷ XV).
Những bài hát tự sự này phần lớn đưọc các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra từ một truyện Nôm đã có trước. Càng về sau, những bài hát này càng được bồi bổ thêm về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đố bài hát đã được ghi vào trong sách, từ đó chính thức trở thành một truyện Nôm (lọai này có thể kể đến truyện: Trương Chi, Tấm Cám).
-Nơi thứ hai sản sinh ra các truyện Nôm là các nhà chùa của đạo phật. Ðể tuyên truyền đạo phật cho các tín đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sư có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều truyện Nôm đã xuất hiện theo con đường này.
Trên đây là nguồn gốc ra đời của truyện Nôm, trong hai hình thức trên cái nào có trước, cái nào có sau chúng ta vẫn chưa xác định được.
-Các hình thái của truyện Nôm.
+Truyện Nôm ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu. Sau một thời gian dài, khi phong trào truyện Nôm truyền khẩu phát triển mạnh mẽ thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử dụng loại hình văn học này để sáng tác, hoặc ghi chép lại những truyện Nôm đã có. Từ đó truyện Nôm viết được xuất hiện. Cũng như mọi hình thái sáng tác, truyện Nôm không phải là đã kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi cái khi xuất hiện đều tồn tại song song với những cái xuất hiện trước hoặc sau nó.
+Cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định được truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác.
+Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xã hội, căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống trị, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận định sơ bộ về sự phát triển của bộ phận văn học này như sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển, thời kỳ cực thịnh của nó là thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Phần lớn các truyện Nôm lưu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX việc sáng tác truyện Nôm dần dần chấm dứt vì thể loại văn xuôi mới ra đời đã đủ sức thay thế nó.
1.2.Vấn đề khuyết danh.
-Hiện nay chúng ta còn một số lượng khá lớn truyện Nôm không còn tên tác giả và thời điểm sáng tác, người ta gọi bộ phận văn học này là truyện Nôm khuyết danh.Nguyên nhân của hiện tượng văn học này? Có ba nguyên nhân.
+Do tâm lý coi thường các sáng tácbằng chữ Nôm của các nhà nho. Tâm lý này đã ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội kể cả những người sáng tác. Do bị coi thường (bị coi là loại văn học nhảm nhí, nôm na, mách qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của chúng không được chú ý đến và dần dần bị quên lãng.
+Do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị. Ðể tránh búa rìu của bọn chúng, nhiều tác giả đã không dám lưu danh trong sáng tác. Ðây là một nguyên nhân quan trọng.
+Nguyên nhân văn học:Trước khi được ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện Nôm được lưu hành trong nhân dân chủ yếu là bằng miệng. Qua một thời gian dài lưu hành từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác nhiều truyện Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện đã trở nên rất gần gũi với các truyện cổ dân gian.
1.3.Vấn đề phân loại.
Truyện Nôm có một số lượng khá lớn hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng tác cho nên nội dung cũng như nghệ thuật của nó đều không thuần nhất. Ðể tiện cho việc nghiên cứu người ta đã tiến hành phân loại bộ phận văn học này. Dựa theo những căn cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác nhau. Có thể phân loại theo ba cách sau:
1.3.1.Dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại.
-Loại lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian. Ví dụ: Trương Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh.
-Loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc. Ví dụ: Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan Trần.
-Loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam. Ví dụ: Tống Trân-Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ.
1.3.2.Dựa vào nội dung và hình thức, có hai loại.
-Truyện Nôm bình dân: Loại này do các nho sĩ bình dân sáng tác.
+Về nội dung loại truyện này mang đậm tính chất quần chúng.
+Về nghệ thuật: mộc mạc , giản dị.
+Ví dụ: Tống Trân- Cúc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa.
-Truyện Nôm bác học: Lọai này do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác.
+Về nội dung, tư tưởng có phần phức tạp hơn truyện Nôm bình dân.
+Về nghệ thuật điêu luyện hơn truyện Nôm bình dân.
+Ví dụ: Phan Trần, Nhị độ mai.
1.3.3.Dựa vào mối quan hệ với tác giả: phân làm hai loại.
-Truyện Nôm hữu danh (còn tên tác giả, ví dụ truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự), loại này còn lại không nhiều. Truyện Nôm hưũ danh phần lớn là truyện Nôm bác học.
-Truyện Nôm khuyết danh (không còn tên tác giả). Phần lớn các truyện Nôm khuyết danh là truyện Nôm bình dân.
Cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, trong đó hình thức thức thứ hai là hình thức phân loại có giá trị khoa học.
CHƯƠNG 2:
ÐẶC TRƯNG VĂN HÓA VIỆT QUA TRUYỆN THƠ NÔM
2.1. Truyện thơ Nôm thể hiện đời sống xã hội của người Việt
Vấn đề trung tâm đặt ra trong hầu hết các truyện Nôm bình dân là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức chống cường quyền bạo chúa bảo vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ nhân phẩm. Qua cuộc đấu tranh nhiều khi không cân sức ấy, tác giả truyện Nôm bình dân có ý thức làm nổi bật hai vấn đề cơ bản sau:
-Tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến trên bước đường suy vong của nó.
-Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động.
-Ngoài ra các tác giả truyện Nôm bình dân cũng thường đưa ra những cách giải quyết tích cực, tiến bộ các vấn đề xã hội.
Ba vấn đề này được coi là ba đặc điểm chính về nội dung của truyện Nôm bình dân. Ba đặc điểm này cũng đã nói lên rằng truyện Nôm bình dân có một nội dung gần gũi với quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của quần chúng lao động.
2.2.1 .Tố cáo bộ mặt cực kỳ thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến.
Trong vấn đề phản ánh hiện thực, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, vạch rõ bản chất của xã hội phong kiến, nói lên những nỗi thống khổ của quần chúng lao động, tác giả của những truyện nôm giàu tính quần chúng này cũng chưa có được cái nhìn đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. Kẻ thù giai cấp của quần chúng hiện lên trong trụuyện chưa phải là cả hệ thống giai cấp phong kiến thống trị đã cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân mà chỉ hiện lên lẻ tẻ. Hình thức bóc lột chính là bóc lột về mặt kinh tế vẫn chưa được các tác giả của bộ phận văn học này đề cập đến. Song ở một mức độ nào đó các tác giả này cũng đã chung sức vạch rõ bản chất thối nát , tàn bạo của xã hội phong kiến. Họ cũng đã dũng cảm làm cái công việc mà những nhà thơ, nhà văn đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị không dám làm hoặc che dấu để dối mình, lừa người. Ðó là phơi bày chân dung thực vốn hết sức bẩn thỉu của giai cấp thống trị. Có thể nói, cùng với bộ phận văn học dân gian, truyện Nôm bình dân đã giúp chúng ta tìm hiểu thêm được nhiều mặt thuộc về bản chất của xã hội phong kiến, một xã hội mà lịch sử dân tộc ta mãi còn lên án.
-Những truyện Nôm khuyết danh đã xây dựng được một hệ thống nhân vật phản diện từ vua chúa, quan lại, bọn nhà giàu ở nông thôn cho đến cả thần thánh (những thần thánh tàn ác). Qua hệ thống nhân vật phản diện này các tác giả đã vạch trần, tố cáo bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột, áp bức đồng thời nói lên tình trạng thống khổ của các tầng lớp nhân dân với một thái độ đồng tình sâu sắc.. +Nếu như trong văn học bác học vua chúa thường được nhắc đến với một thái độ tôn kính hoặc được coi như những thần tượng thiêng liêng tôn quý thì ở truyện Nôm bình dân chúng chỉ là những tên hôn quân, bạo chúa đáng lên án nhất. Loại truyện này nói rất nhiều đến việc vua chúa ép duyên trắng trợn. Hoặc chúng ép các tân khoa trạng nguyên phải bỏ vợ tào khang (người vợ đã cùng chung sống trong cảnh nghèo hèn) để lấy con gái mình (hai tên vua trong Tống Trân-Cúc Hoa đã lần lượt ép Tống Trân lấy con gái mình, bỉ ổi nhất là tên vua nước Việt sau khi không ép được Tống Trân hắn đã đẩy chàng đi xa). Hoặc những tên vua như Trang vương trong Phạm Tải-Ngọc Hoa, vua Hung Nô trong Lý Công đã ép những người con gái đẹp bỏ chồng để lấy mình. Tàn bạo nhất vẫn là Trang Vương, hành động ép buộc của y đã đẩy Ngọc Hoa-một cô gái đang yêu vào chỗ chết. Cái chết của nhân vật này đã gieo vào lòng người đọc một nỗi thương tâm vô hạn và càng thấy căm thù hơn giai cấp phong kiến thống trị.
+Có quyền, có lực bọn vua chúa tự cho phép mình làm những việc trái với luân thường, đạo lý nhằm thỏa mãn dục vọng đen tối của mình nhưng mặt khác đối với quần chúng lao động- những con người bị áp bức- bọn chúng lại ra sức kìm hãm tình cảm chân chính của họ. Tên vua Bảo Vương trong Lý Công đã cương quyết cắt đứt tình cha con, nhẫn tâm bắt con gái độc nhất cho voi giày, không được thì đem thả bể trôi sông chỉ vì công chúa đã tự tiện yêu đương ngoài sự kiểm soát của cha mẹ.
Trong truyện Nôm , bọn quan lại hiện lên chỉ là những kẻ bất tài, bất lực, chỉ giỏi việc xu nịnh vua, giỏi ức hiếp dân. Cả lũ triều thần trong Phạm Tải-Ngọc Hoa không ngăn cản nổi vua làm điều xằng bậy lại con xúi giục vua đi sâu vào tội lỗi. Tên quan trong Phương Hoa chỉ vì không lấy được người con gái đã hứa hôn đã đem tay chân đến giết hại, cướp của, phá nhà của cô gái ấy.
-Bọn nhà giàu ở nông thôn.
Những phú ông, những trưởng giả-bọn giàu có ở nông thôn được phản ánh trong các truyện Nôm khuyết danh bình dân khá sâu sắc. Nét nổi bật ở bọn người này là tâm lý tham tiền. Vì tiền, bọn chúng có thể làm tất cả. Có độc giả nào lại không căm ghét tên trưởng giả trong Tống Trân-Cúc Hoa. Vì tiền mà hắn đã coi con gái như một món hàng có thể đánh mõ, rao làng, gả bán mấy lần cũng được. Chẳng cần giữ một chút liêm sĩ nào cả, y ép Cúc Hoa phải bỏ chồng đi vắng để lấy một người triệu phú trong làng. Khi con gái kháng cự lại, y đã hành hạ con không tiếc tay và cuối cùng vẫn gả bán con cho bằng được mặc cho cô gái tội nghiệp kêu than.
Tóm lại: Tất cả những bọn này để đạt được mục tiêu ích kỷ, đê hèn của mình đã không từ một âm mưu, một thủ đoạn đen tối, hiểm độc nào. Chúng đã giày xéo lên những đạo đức, luân lý cơ bản nhất, giày xéo lên những pháp luật mà chúng đặt ra, giày xéo lên tính mạng của người dân và phá hoại hạnh phúc của bao nhiêu người vô tội.
Ðồng thời với việc tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, tác giả của bộ phận văn học này đã nói lên được nỗi thống khổ của quần chúng lao động (hạnh phúc tan vỡ, tính mạng bị đe dọa.. .) với một thái độ đồng tình sâu sắc.
2.2. Truyện thơ Nôm đề cao những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động.
Truyện thơ Nôm có một giá trị nhân đạo khá sâu sắc bởi nó không chỉ tố cáo những tội ác của giai cấp thống trị với quần chúng lao động , với những con người bị áp bức, đè nén mà các tác giả của bộ phận văn học này còn có ý thức đề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động, đặc biệt là đề cao người phụ nữ- con người thấp hèn nhất trong xã hội xưa.
Khuynh hướng đề cao quần chúng lao động đều thể hiện rất rõ trong mọi truyện Nôm bình dân. Ta thấy rằng các nhân vật chính bao giờ cũng là những người lao động, những người bị áp bức, bóc lột. Truyện viết về họ nên tác giả thường lấy tên họ đặt cho tác phẩm: Thạch Sanh, Tấm Cám, Trương Chi.. .
Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng, tác giả của bộ phận văn học này chủ yếu viết về những tình cảm tốt đẹp và lòng nhân đạo cao quý của họ. Trước hết là lòng thương người, một tình thương hết sức mộc mạc, chân thành mà cảm động và vững bềnNhắc đến văn học trung đại Việt Nam không thể không nhắc đến truyện thơ Nôm Việt Nam. Ngoài nội dung chuyển tải những bài học nhân sinh sâu sắc, truyện thơ Nôm còn đi vào lòng người và đọng lại trong tâm hồn mỗi chúng ta về những hình mẫu con người lý tưởng, lung linh những nét đẹp phẩm giá đáng trân trọng.
Do chủ yếu lấy truyện xưa, tích cũ làm đối tượng miêu tả nên truyện thơ Nôm mang vào mình một số đặc trưng của truyện cổ tích hoặc truyện kể dân gian trong cách xây dựng nhân vật, miêu tả thời gian, không gian…Hầu hết các truyện Nôm, đặc biệt là truyện Nôm bình dân đều miêu tả nhân vật để nhằm khắc họa ý đồ mà cốt truyện đã xây dựng nên chứ không phải đi sâu khắc họa tính cách nhân vật đó. Ngoại hình con người ít khi được miêu tả và nếu có chỉ miêu tả sơ sài công thức cốt chỉ để người nghe nhận ra đó là loại người xấu, hay tốt mà thôi. Cô Cám (truyện Cái Cám), Cúc Hoa (Phạm Công - Cúc Hoa), cô gái (Mộng Hiền truyện)…. đều là kiểu nhân vật như thế cả. Ngay cả nàng Nguyệt Nga của cụ Đồ Chiểu cũng không được chú trọng miêu tả ở dung mạo bề ngoài mà đặc biệt lưu ý vẻ đẹp tiết hạnh đáng quí nổi bật. Như vậy, nhìn chung ở “truyện Nôm xu hướng phiếm chỉ hóa vẫn là đặc trưng khá phổ biến, và nhân vật trong truyện Nôm thực chất vẫn còn ở dạng loại hình nhiều hơn cá tính”.
Nhân vật truyện thơ Nôm bác học thường là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ. Đặc điểm ngoại hình nhân vật cũng có liên quan đến sự phát triển của cốt truyện và thường có những dấu hiệu để nhận biết như: tên gọi, về tiểu sử, nghề nghiệp.... Những dấu hiệu đó được trình bày ngay từ đầu và ảnh hưởng đến sự phát triển về sau của cốt truyện. Cách miêu tả vẻ đẹp Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau trong Truyện Kiều dường như cũng dự báo về số phận của mỗi người sau này:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
Hay việc giới thiệu Hoạn Thư:
"Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già"
Cũng gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau của nhân vật.
Hoạt động của nhân vật truyện thơ Nôm Việt Nam cũng được miêu tả theo nguyên tắc ước lệ. Nhìn chung, nhân vật truyện thơ Nôm vẫn chưa thoát khỏi những khuôn mẫu của nhân vật truyện cổ tích và vị thế mang đầy đủ đặc trưng của nhân vật truyện cổ tích. Chúng ta hãy xem xét các nhân vật trong Thoại Khanh- Châu Tuấn, Phạm Công – Cúc Hoa… đều như được đúc ra từ một khuôn. Một số nhân vật nam như Lý Công, Phạm Công, Châu Tuấn đều mồ côi từ nhỏ, đều là những học trò nghèo phải đi ăn mày hoặc dắt mẹ đi ăn mày như vẫn nuôi chí học thành tài và cuối cùng đều thi đỗ Trạng Nguyên. Trong tình yêu họ đặc biệt thủy chung son sắt. Mặc dù thành đạt bị vua ép gã công chúa đều tìm cách chối từ cho dù bị đày ra viễn xứ, xa vợ con hàng chục năm trời vẫn không nguôi nhớ thương. Còn hầu hết các nhân vật nữ thường xinh đẹp tuyệt vời, một lòng hiếu thảo với mẹ chồng, đảm đang nuôi chồng ăn học và lúc gặp hoạn nạn khó khăn xa chồng họ vẫn luôn giữ tròn danh tiết, kiên trinh đợi chờ. Đó là nét phẩm chất chung của nhân vật truyện thơ Nôm Việt Nam. Vì vậy theo nhận xét của Kiều Thu Hoạch trong “Truyện Nôm – nguồn gốc và bản chất thể loại”: “Thế giới nhân vật truyện thơ Nôm có tính chất lí tưởng hóa nhiều hơn là hiện thực”.
Những nhân vật tốt, tích cực không bao giờ chịu thất bại trước những thế lực phản động có quyền uy mãnh mẽ trong xã hội để cuối cùng đi đến kết thúc tốt đẹp. Ngay cả những truyện Nôm bác học như truyện Kiều, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga… cũng xây dựng nhân vật nhằm đi tới tình huống kết thúc có hậu này. Và để thực hiện điều này tác giả tryện thơ Nôm đôi khi phải nhờ đến sự hỗ trợ của các yếu tố thần kỳ.
Mặt khác, nhân vật truyện thơ Nôm bình dân thường không thông qua việc miêu tả ngoại hình hay phân tích nội tâm mà chủ yếu được thể hiện thông qua hành động. Ngôn ngữ đối thoại được dùng để biểu hiện cảm nghĩ của nhân vật. Đây là nguyên tắc về nghệ thuật có tính chất cơ bản trong việc xây dựng nhân vật truyện.
- Trong truyện Nôm bình dân đó là những con người như Cúc Hoa, Ngọc Hoa sẵn sàng yêu thương kẻ nghèo khó khốn cùng (mẹ con Phạm Công, Phạm Tải). Ðó là tấm lòng cưu mang những con người sa cơ, lỡ vận; là tấm lòng chí hiếu của những nàng dâu đối với mẹ chồng như Thoai Khanh đối với mẹ Châu Tuấn, Cúc Hoa đối với mẹ Phạm Công. Quan hệ mẹ chồng-nàng dâu ở đây được khẳng định là một tình cảm tốt đẹp, đáng quý chứ không phủ định như ở ca dao.
- Nổi bật nhất vẫn là tình cảm, tình yêu của những cặp vợ chồng, họ yêu thương thắm thiết và chung thủy hết mực với nhau. Sự chung thủy của vợ chồng Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa đã giúp họ vượt qua mọi thử thách, mọi cảnh ngộ éo le mà xã hội phong kiến đã bày ra, giúo họ vượt lên trên sự cám dỗ của giàu sang, phú quý, đứng vững trước sự đe dọa của cường quyền, bạo lực.
Ðề cao quần chúng lao động, tác giả của bộ phận văn học này cũng đặc biệt chú ý đề cao người phụ nữ. Ðây cũng là một nét đặc sắc của văn học giai đoạn này đồng thời nó cũng là sự phản ánh vai trò, chức năng của người phụ nữ vào văn học. Các nhân vật phụ nữ xuất hiện trong các truyện Nôm bình dân có nhiều nét đổi mới: Họ xuất hiện với một tư thế của người vươn lên làm chủ vận mệnh. Thường xuất thân từ lá ngọc cành vàng (con nhà triệu phú trở lên như Cúc Hoa) nhưng các nhân vật nữ này lại có thân phận cụ thể của quần chúng lao động (họ cũng bị áp bức, đè nén; giàu lòng trắc ẩn, giàu lòng thương người).
Các điểm cần lưu ý.
+Các nhân vật nữ đã dám hành động theo suy nghĩ của mình chứ không theo đạo đức phong kiến. Hành động của Cúc Hoa, Ngọc Hoa quả là những hành động táo bạo. Hai cô gái này đã cương quyết lấy người con trai mà mình đã thương yêu dù những chàng trai đó là những người ăn mày nghèo nàn. Quan niệm về hôn nhân của Cúc Hoa, Ngọc Hoa là một quan niệm hết sức tiến bộ, nó vượt xa quan niệm môn đăng hộ đối của các cô gái quý tộc xưa. Hai cô dám nhìn thẳng vào chân giá trị của những con người nghèo hèn nhất, đến với họ và đến với cả một tấm lòng yêu thương và thông cảm.
+Hoàn toàn khác với các cô gái trong truyện Nôm bác học, đến với tình yêu bằng sự rung động của giới tính, cac cô gái của truyện Nôm bình dân đã đến với tình yêu bằng sự rung động của đạo đức-lòng yêu thương những người nghèo. Ðây chính là cơ sở của nhiều mối tình son sắt, thủy chung bất chấp những ngang trái của cuộc đời cũ.
+Một số nhân vật nữ không chỉ dám chủ động xây dựng hạnh phúc mà còn tích cực đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc và tình yêu đẹp đẽ của mình (nên nhớ rằng các nhân vật này bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của bản thân chứ không phải để bảo vệ đạo đức phong kiến). Và trong cuộc đấu tranh đó họ đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp (lòng vị tha, đức hi sinh, nghị lực phi thường, trí thông minh quyết đoán...) mà nội dung phản ánh còn được mở rộng, ý nghĩa xã hội của chủ đề được nâng cao. Cuộc đấu tranh của họ ngoài ý nghĩa bảo vệ hạnh phúc, tình yêu còn có ý nghĩa bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ công lý.
+Cố nhiên những phẩm chất đạo đức trên thường bị tác giả quy vào những quan niệm: trung, hiếu, tiết, nghĩa của hệ thôïng luân lý Nho giáo. Nhưng xét cho cùng những khái niệm đạo đức đó căn bản đã có một nội dung nhân đạo được nhân dân tán thành và ưa chuộng.
2.3.Truyện thơ Nôm chuyển tải được tư tưởng đạo đức luân lí và tín ngưỡng của người Việt
Truyện Nôm không chỉ đặt ra những vấn đề lớn lao mà còn đưa ra được cách giải quyết tích cực là để những người lương thiện chiến thắng các lực lượng bạo tàn. Ðây là phần lãng mạn tích cực của bộ phận văn học này vì thực ra trong chế độ phong kiến nói chung nhân dân lao động làm gì kiếm ra được hạnh phúc trọn vẹn bởi các cuộc khởi nghĩa của nông dân thường đi đến thất bại hoặc chỉ đưa đến một sự thay đổi triều đại rồi đâu lại vào đấy.
-Nhưng có một điều là sống trong xã hội đen tối đó quần chúng lao động bao giờ cũng có một ước mơ về một xã hội không có sự bất công, bất bình đẳng, một xã hội thái bình trong đó người ta sống yêu thương nhau và có hạnh phúc đầy đủ, họ ước mơ một xã hội có vua tốt, tôi hiền. (Văn học dân gian nói đến vấn đề này rất rõ). Ðó là những mơ ước chính đáng (xét trong hoàn cảnh xã hội) chứ chưa phải là nhữnh mơ ước đúng đắn nhất, đầy đủ nhất. Tác giả của bộ phận văn học này là những người có cuộc sống khá gần gũi với quần chúng lao động nên họ hiểu được quần chúng nhiều hơn và phản ánh được những ước mơ đẹp đẽ, phản ánh được tinh thần lạc quan mạnh khỏe của quần chúng vào sáng tác của mình. Vì thế các sáng tác của các tác giả bình dân này đã tiếp thêm sức sống cho con người lao động trong xã hộ xưa, quần chúng tìm đến những sáng tạo nghệ thuật này một phần cũng vì lý do trên.
-Chúng ta cũng cần biết thêm rằng: Do những hạn chế của lịch sử cho nên các tác giả cũng chưa nhìn thấy ở quần chúng cái động lực để giải quyết các vấn đề thời đại đặt ra, cho nên trong đấu tranh họ phải nhờ đến những lực lượng siêu hình như thần phật giúp đỡ. Nhưng thần phật cũng chỉ có mặt để cho con người chiến đấu hết mình với hoàn cảnh. Trong cuộc đấu tranh sinh tử ấy, con người vẫn phải chủ động, vẫn phải nỗ lực rất nhiều.
2.4. Kết cấu cốt truyện truyện thơ Nôm có nằm trong mạch nguồn của kết cấu truyện kể dân gian.
Để xây dựng câu chuyện theo mô hình “kết thúc có hậu”, mô hình: gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ quen thuộc vẫn thường xuất hiện các truyện thơ Nôm, đặc biệt là truyện thơ Nôm bình dân, yếu tố thần kỳ được sử dụng như là một “hình tượng” đặc trưng. Chính vì thế Kiều Thu Hoạch trong giáo trình Truyện Nôm - nguồn gốc và bản chất thể loại đã khẳng định: “Yếu tố thần kỳ chẳng những chỉ là một biện pháp nghệ thuật quan trọng để thực hiện mô hình cấu trúc gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ mà còn là một đặc trưng thi pháp không thể thiếu của thể loại truyện này”.
Trong mô hình cấu trúc gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ của truyện Nôm thì trường đoạn tai biến có nhiều diễn biến phức tạp nhất của cốt truyện. Tại đây nhân vật chính luôn luôn phải trải qua những biến cố cực kỳ khủng khiếp tưởng chừng như vượt quá sức chịu đựng của một con người bình thường. Trong những trường hợp như thế, đành rằng nhân vật chính giữ vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định, song bên cạnh đó vẫn không thể thiếu được sự hỗ trợ của một sức mạnh vô hình, thường được biểu hiện bằng những lực lượng siêu nhiên và những yếu tố thầng kỳ. Nhờ vậy mà nhân vật chính đã có thể vượt qua hành loạt những tai ương tưởng chừng không thể vượt qua, để đi đến thắng lợi cuối cùng, đi đến kết cục đoàn tụ - một cấu trúc quen thuộc muôn thưở của loại hình truyện thơ Nôm.
Trong truyện Phạm Công – Cúc Hoa, chàng Phạm Công vì công chịu lấy công chúa Hung Nô nên bị chua Hung Nô sai quân chặt tay, khoét mắt, đục răng… Nhưng nhờ có Ngọc Hoàng sai chư tướng xuống phù phép, nên chàng đã lành lặn như xưa. Còn nàng Cúc Hoa tuy đã chết những vẫn thường hiện linh để giúp đỡ chồng con. Và cảnh tưởng ly kỳ hơn là khi Phạm Công vì quá thương nhớ vợ nên đã lặn lội xuống âm phủ tìm gặp. Chính tình yêu thủy chung của chàng khiến Diêm Vương cảm động nên cho phép Cúc Hoa trở lại trần gian sống hạnh phúc cùng chồng. Cảnh tượng này cũng xuất hiện ở truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa khi nàng Ngọc Hoa tự tự để được xuống âm phủ gặp chồng. Tại cõi âm, Ngọc Hoa cùng Phạm Tải viết cáo trạng kiện Trang Vương. Trang Vương đã bị bắt xuống âm ty xử tội và bị bỏ vạc dầu. Hai vợ chồng Phạm Tải, Ngọc Hoa hồi sinh trở về dương thế. Sau đó Phạm Tải được Ngọc Hoàng cho làm vua chăn dân thái bình an lạc.
Ở Thoại Khanh – Châu Tuấn một loạt yếu tố thần kỳ cũng liên tục xuất hiện xung quang nhân vật Thoại Khanh. Châu Tuấn chồng Thoại Khanh khi đỗ Trạng nguyên đã bị lưu đày sang nước Tề vì không chịu kết duyên cùng công chúa con vua. Mòn mỏi đợi chờ trong bảy năm không thấy chồng về, Thoại Khanh đã dắt mẹ chồng sang Tề quốc tìm chồng. Giữa đường, đói khát sức kiệt nàng đã phải cắt thịt ở cánh tay mình cho mẹ chồng ăn. Vì đã có Phật tổ phù hộ nên cánh tay nàng vẫn không hề chảy máu, sau còn được Ngọc Hoàng cho linh sơn đắp vào lành lặn như cũ. Dọc đường đi, lúc ăn xin trong ngôi miếu hoang, Thoại Khanh lại bị Dâm thần cưỡng bức, móc mù mắt. Về sau nhờ phép tiên hai tròng mắt được mua về lắp vào sáng lại như xưa. Khi đi qua rừng sâu nàng còn được lại được hổ thần cõng giúp nên nhanh chóng đến địa phận nước Tề. Đặc biệt thần kỳ là Thoại Khanh còn được Phật tổ cho cây đàn thần, đây chính là vật môi giới giúp nàng tìm lại Châu Tuấn, kết thúc chặng đường tìm kiếm đầy khổ ải của đời mình.
Ngay cả chuyện Nôm bác học Lục Vân Tiên của nhà nho Nguyễn Đình Chiểu cũng lấp lánh những yếu tố thần kỳ. Theo thống kê của Nguyễn Quang Vinh trong Tạp chí Văn học số 4 – 1972 thì truyện Lục Vân Tiên có đến mười hai lần xuất hiện các yếu tố thần kỳ để phù trợ cho Vân Tiên, Nguyệt Nga trừng phạt những lực lượng độc ác và vượt qua được mọi khó khăn, thử thách. Trong Sơ kính tân trang – mặc dù câu chuyện viết từ nguyên mẫu mối tình hiện thực bi thảm giữa nhà thơ tài hoa Phạm Thái và Trương Quỳnh Như nhưng yếu tố thần kỳ vẫn được sử dụng như một cách thức để đi đến kiểu kết thúc có hậu. Chi tiết Trương Công đã ngoài sáu mươi tuổi lại sinh con và nàng Thụy Châu chính là Quỳnh Như hóa kiếp vô tình gặp gỡ Phạm Thái trên chùa để rồi tái duyên chính là những chi tiết ly kỳ giúp cho câu chuyện đi đến kết cục ngập tràn hạnh phúc.
Như vậy, qua một số dẫn chứng, chúng ta nhận thấy việc sử dụng yếu tố thần kỳ là một biện pháp nghệ thuật không thể thiếu để hướng nhân vật chính đi đến kết thúc có hậu. Nếu biện pháp đó chưa được thực hiện như một quy trình chặt chẽ thì tác phẩm chắc chắn chưa thể đi đến đoạn kết thắng lợi. Có lẽ vì thế Truyện Kiều – một tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng của đại thi hào Nguyễn Du vẫn có màn Kim Kiều tái hợp ở đoạn kết như âm hưởng bi ai, cay đắng vẫn không thể xóa bỏ. Có lẽ do nhà thơ đã không sử dụng yếu tố thần kỳ như là một thủ pháp nghệ thuật cần phải có để hướng nhân vật chính tất yếu phải đi theo con đường kết thúc có hậu như các truyện thơ Nôm bình dân mà chúng ta hay bắt gặp. Do đó “Truyện Kiều không có cái kết cấu bình dị nhưng đầy ý nghĩa lạc quan chiến đấu của một số truyện thơ Nôm chịu ảnh hưởng của văn học dân gian như Phạm Tải – Ngọc Hoa, Thạch Sanh, Tống Trân – Cúc Hoa… nhạc khúc cuối cùng của kiệt tác Truyện Kiều nghe ta vẫn ngậm đắng nuốt cay thế nào. Màn “Tái hồi Kim Trọng” là một kết thúc vừa sáng tươi, vừa bi kịch”.
Có lẽ vì vậy nên chúng ta dễ dàng nhận thấy ở nội dung truyện Nôm luôn dồn nén những khát vọng dân chủ, tiến bộ của nhân dân lao động trong giai đoạn suy vong của chế độ phong kiến và trở thành vũ khí phê phán sắc bén, mạnh mẽ chống trả quyết liệt với hệ thống đạo đức, lễ giáo, kỷ cương cổ hũ, bất công, thối nát.
KẾT LUẬN
Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam. Ðây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng, vì vậy có người gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ phận văn học này được sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng. Một số ít khác viết theo thể thất ngôn bát cú (thơ Ðường luật), tác phẩm Lâm Tuyền kỳ ngộ thuộc loại này. Bộ phận văn học này có một số lượng khá lớn và có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng lao động. Truyện thơ Nôm mang đậm dấu ấn văn hóa Việt, nên giá trị của thể loại văn học này đã được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ.
Chương 5
TRUYỆN THƠ NÔM
I. MỘT SỐ VẤN CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ NÔM
1. Vấn đề nguồn gốc và sự phát triển của truyện Nôm.
2. Vấn đề khuyết danh.
3. Vấn đề phân loại.
II. ÐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN.
1. Nội dung
2. Ðặc điểm nghệ thuật.
III. MỘT SỐ NÉT HẠN CHẾ
IV. KẾT LUẬN
________________________________________