Giá trị pháp lý của chữ kí điện tử đăng ký chữ ký số được luật pháp Việt Nam nhận
Theo Luật giao du điện tử,
đăng ký chữ ký số đã được nhận tại Việt Nam, có giá trị pháp lý rõ ràng và được ứng dụng rộng rãi trong nhiều giao tế thương điện tử, và cả những giao du pháp lý như
bao cao thue qua mang, nộp thuế điện tử vnaccs vcis,… ,…
Điều 21 Luật giao tiếp điện tử
Theo khoản 1, Điều 21 Luật giao du điện tử
khai hải quan điện tử thì “Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc phối hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng công nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự ưng của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.”
Điều 22 Luật giao dịch điện tử
Khoản 1, Điều 22 Luật giao tiếp điện đỗ quyên định: “Chữ ký điện tử được xem là đảm bảo an toàn nếu được kiểm chứng bằng một quy trình kiểm tra an toàn do các bên giao dịch thỏa thuận và đáp ứng được các điều kiện sau đây:
a) Dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ gắn duy nhất với người ký trong bối cảnh dữ liệu đó được sử dụng;
b) Dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ thuộc sự kiểm soát của người ký tại thời khắc ký;
c) Mọi đổi thay đối với chữ ký điện tử sau thời điểm ký đều có thể bị phát hiện;
d) Mọi thay đổi đối với nội dung của thông điệp dữ liệu sau thời khắc ký đều có thể bị phát hiện.
Điều 24 Luật giao tiếp điện tử
Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử được quy định tại Điều 24, Luật giao dịch điện tử như sau:
1. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu chữ ký điện tử được dùng để ký thông điệp dữ liệu đó đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự ưng của người ký đối với nội dung thông điệp dữ liệu;
b) Phương pháp đó là đủ tin cẩn và hạp với mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu được tạo ra và gửi đi.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật giao tiếp điện tử và chữ ký điện tử đó có chứng nhận.