tên gọi
Cửa Lò có nhiều thổ giải thích như:
Đó là khởi hành từ thổ gọi chệch về của từ Cửa Lùa dĩ vãng. Do nơi con sông Cấm tan ra biển giữa một đằng là Mạch núi của xã Nghi Thiết , một đằng là Mạch núi Lô Sơn thuộc lòng hát bộ Nghi Tân - Cửa Lò thành thử hồi gió biển thổi vào cũng như gió từ hướng đất thổi ra biển , người ta chộ nơi đây như một cửa gió lùa. Sự cảm nhận ni nổi Mệnh danh cho cửa biển và bởi thế nó có tên là Cửa gió lùa. Từ cửa gió lùa người ta gọi gọn Đã là Cửa Lùa. Về sau Cửa Lùa nổi gọi thành Cửa Lò. Khi người Pháp tới đây , địa danh ni nổi văn khế hóa như hiện tại. Cách giải thích thứ hai cho rằng , Cửa Lò là địa danh gốc Malayo - Polinêsian với nghĩa là cửa sông. Trong tiếng nói Malayo - Polinêsian từ kưala để gọi tên một con sông ùa ra biển. Vị (Mùi) dần , danh từ kưala với nghĩa cửa sông chuyển thành danh từ riêng kưala/kưalo và địa danh hóa thành Cửa Lò. Một thổ giải thích dân gian cũng khá thuyết phục về địa danh Cửa Lò là bởi chưng vùng đất ni ngày xửa ngày xưa là lãnh hải tiến , cư dân nơi đây bình thường làm nghề nấu muối , ánh gió mà thành phạt ra từ những lò nấu muối gây nên những ngon đèn đèn biển cho tàu bè ra vào cửa sông Cấm , từ cửa lò theo thổ giải thích ni là cửa lò muối , dần quen biến chuyển gọi tắt là
khách sạn cửa lò.
Cửa Lò mẩu đất ni còn nổi gọi là nơi tụ hội của nhiều núi và cù lao như: Núi Lò ( Lô Sơn ) , Núi Cờ , Núi Voi , Núi Tuất , Núi áo , Núi Yên bò , Núi Kiếm , Hòn Thỏi Mực , Núi Bảng… hả phạt thịnh sinh ra nhiều tướng tài có công phu với núi sông và xây dựng nổi nền văn hiến của đất này. Núi Cờ ( còn gọi là núi Động Đình ) có khu mồ Nguyễn Hội bởi chưng hổ táng. Nguyễn Hội là thân sinh của Thái Uý Cương quốc công Nguyễn Xí - Công thần khai quốc hương ẩm tửu Lê. Các bia đá còn Đã tới hiện tại ở đền thờ Nguyễn Xí ( Nghi Hợp ). Có Đền thờ xắt uý quận công Nguyễn Sư Hồi. Ngoại giả còn có các văn sỹ tiêu biểu như: Hoàng Giáp Phạm Nguyễn Du ở Đặng Điền , đậu tiến sỹ Một thể thơ cổ 1779; Hương cống hội thi trúng tâm trường Phùng Thời Tá ở Thu Lũng ( Nghi Thu ); Tiến sỹ đeo mặt nạ Huy Nhu ở làng Vạn Lộc , đậu Một thể thơ cổ 1916 , Phó bảng Hoàng Văn Cư ở Vạn Lộc , đậu Một thể thơ cổ 1904; Phó bảng Vũ Văn Cầu ở Nghi Thu , đậu Một thể thơ cổ 1862; Về y khoa có: Chánh thầy thuốc của vua Phạm Văn Dụ; lương y Hoàng đeo mặt nạ Cát , Thái thầy thuốc của vua Hoàng Nguyễn Xuân Thu ( …
hiện tại , người dân
du lịch cửa lò hãy phát huy nổi truyền thống cha ông " Văn dành tốc bút , võ đoạt đề đao , nền y khoa chưa nơi ni sánh kịp" với rất nhiều nhà khoa học , văn nghệ sỹ , tướng soái nức tiếng khắp Đất nước.