Nhân dân ta từ ngàn đời xưa đã có kinh nghiệm trong việc coi xét thời tiết, các hiện tượng thiên nhiên để vận dụng vào nông nghiệp. Nước ta trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc cũng như bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa Trung Quốc vì vậy các thuật chiêm tinh lần lượt nhập khẩu vào nước ta. Chẳng phải bởi thế mà ta đã có lịch, lịch âm,
lịch dương và qua đó thuật chọn ngày cũng từ đó mà xuất hiện với nhiều đặc điểm biệt lập cho từng vùng miền.
Từ sau cách mạng tháng 8 -1945. Trong bối cảnh chiến tranh cứu nước thì có mấy ai mà quan tâm đến tục chọn ngày, chọn giờ tất thảy phục vụ cho kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Những ngày quan yếu như ngày cưới của đôi uyên ương cũng không thể chọn ngày đẹp mà có chẳng chỉ là đôi trai gái yêu nhau, hai gia đình chấp thuận và chọn một ngày thuận tiện cho cả hai gia đình và tổ chức. Những việc xuất phát, hôn nhân, tang tế, giờ Hoàng Đạo, trùng phùng đều không được coi thì giờ. Cũng không thể trách trong khi người ta bận rộn với cuộc sống, với cái ăn, cái mặc, sự sống, cái chết thì làm sao có thể để tâm được việc đó.
Những thủ tục chọn ngày lành, tháng tốt, giờ tốt vẫn lan truyền trong dân gian. Nào là ngày Thiên ân, ngày sát chủ, hay những câu nói truyền khẩu vẫn có thể dung làm cơ sở cho việc chọn ngày giờ như: Tâm lý chung thích chọn ngay chẵn, tránh ngày lẻ, tránh tam nương, nguyệt kỵ, ngày sóc và ngày nguyệt tận ( ngày đầu tháng và cuối tháng theo
âm lịch).
Mồng năm, mười bốn, hai ba
Đi chơi còn lỗ nữa là đi buôn.
Hay
Một, ba, sáu, tám tuổi kim lâu
Cưới vợ làm nhà chẳng được đâu. (Tuổi kim lâu : lấy tuổi mụ trừ đi bội số của 9. Số dư rốt cuộc là 1, 3, 6, 8.)
Hay:
Làm ruồng tháng năm, trong trưng rằm tháng tám.
Cưới vợ xem tuổi đàn bà
Làm nhà xem tuổi đàn ông.